Những trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam không chỉ ghi lại các sự kiện lịch sử quan trọng, mà còn khắc sâu hình ảnh của những nhân vật vĩ đại đã góp phần làm nên độc lập, tự do cho đất nước. Việc viết bài văn kể lại một sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử không chỉ giúp học sinh ôn lại kiến thức, mà còn rèn luyện khả năng kể chuyện có cảm xúc, logic và chân thực. Từ chiến công của Lý Thường Kiệt bên sông Như Nguyệt, đến hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Bác Hồ, hay trận đánh oanh liệt của vua Quang Trung tại Đống Đa…, mỗi câu chuyện đều mang đến bài học sâu sắc về lòng yêu nước, ý chí và trí tuệ con người Việt Nam. Trong bài viết này, maubanhkem.com giới thiệu loạt bài văn mẫu được chọn lọc, giúp học sinh hiểu rõ cách triển khai đề, làm bài đúng trọng tâm và trau dồi kỹ năng kể chuyện giàu cảm xúc, sinh động và giàu tính nhân văn.
Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mẫu 1
Tôi vẫn nhớ như in buổi học Lịch sử đầu tiên của học kỳ II, cô giáo giảng về chiến công của Lý Thường Kiệt – một vị tướng tài ba đời nhà Lý. Câu chuyện về chiến thắng trên sông Như Nguyệt năm 1077 không chỉ khơi dậy lòng yêu nước trong tôi mà còn khiến tôi thầm cảm phục tài mưu lược và tinh thần quyết chiến quyết thắng của ông.
Năm 1075, nhà Tống rắp tâm xâm lược Đại Việt. Lý Thường Kiệt – khi ấy là Thái úy, đã chủ động tiến công trước bằng chiến dịch đánh phủ Khâm, Liêm (thuộc Quảng Tây, Trung Quốc ngày nay) để phá tan thế mạnh của quân Tống. Sau khi rút quân về nước, ông lập phòng tuyến kiên cố bên bờ nam sông Như Nguyệt, chờ đánh trả quân xâm lược.
Tháng 1 năm 1077, đại quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy tràn sang nước ta. Nhưng trước mắt họ là hệ thống phòng ngự vững chãi mà Lý Thường Kiệt đã xây dựng: chiến lũy dày đặc, hầm chông, bãi cạm. Trên bờ, quân ta giăng sẵn đội cung thủ thiện chiến, dưới sông, thuyền chiến mai phục.
Cuộc chiến kéo dài nhiều ngày đêm, khói lửa mịt mù. Quân Tống liên tục tấn công nhưng đều thất bại. Giữa lúc đó, Lý Thường Kiệt cho người đọc bài thơ “Nam quốc sơn hà” vang lên trong đêm tối giữa lòng sông:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư…
Âm vang bài thơ như lời tuyên ngôn độc lập, như khí phách của một dân tộc không chịu khuất phục. Quân sĩ Đại Việt càng đánh càng hăng. Cuối cùng, quân Tống bị thương vong nặng nề, buộc phải rút lui.
Chiến thắng Như Nguyệt không chỉ là thắng lợi về quân sự mà còn khẳng định tầm nhìn chiến lược, tài thao lược và tinh thần chủ động bảo vệ tổ quốc của Lý Thường Kiệt. Mỗi lần nhớ lại câu chuyện, tôi như thấy rõ hình ảnh vị tướng già, rắn rỏi, mắt sáng như sao, đứng hiên ngang giữa chiến tuyến khói lửa để bảo vệ non sông.
Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mẫu 2
Tháng 6 năm 1911, một chàng trai trẻ tuổi tên là Nguyễn Tất Thành đã bước chân lên con tàu Đô đốc Latouche Tréville tại bến cảng Nhà Rồng. Sự kiện tưởng chừng bình thường đó đã mở đầu cho một hành trình vĩ đại: Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước – cột mốc lịch sử khắc sâu trong trái tim dân tộc.
Ngày ấy, đất nước ta đang chìm trong ách thống trị thực dân Pháp. Bao nhiêu phong trào yêu nước nổ ra rồi thất bại. Những người trẻ như Nguyễn Tất Thành không khỏi trăn trở. Tại Sài Gòn, người thanh niên 21 tuổi mang hoài bão lớn: muốn ra đi để tìm hiểu nước Pháp, xem họ làm gì mà có thể đô hộ dân ta, và tìm con đường mới cho độc lập dân tộc.
Để thực hiện ước nguyện, Người xin làm phụ bếp trên tàu buôn của Pháp. Ngày 5/6/1911, từ cảng Nhà Rồng, Người âm thầm bước lên tàu trong bộ quần áo lao động giản dị, mang theo một khát vọng lớn lao. Từ đây, Người bắt đầu cuộc hành trình qua nhiều nước: Pháp, Anh, Mỹ, châu Phi, Nga… suốt 30 năm bôn ba học hỏi lý luận cách mạng, trải nghiệm thực tiễn của giai cấp công nhân, tìm ra con đường giải phóng dân tộc: con đường cách mạng vô sản.
Mỗi khi đọc lại những dòng hồi ký kể về ngày ra đi ấy, tôi không khỏi xúc động. Một người con của dân tộc, dẫu nghèo khó, không bằng cấp cao, không tiền bạc, nhưng với trí tuệ, ý chí và trái tim yêu nước cháy bỏng, đã vượt trùng dương, đặt nền móng cho hành trình giành độc lập sau này.
Câu chuyện ra đi tìm đường cứu nước của Bác không chỉ là một trang sử hào hùng, mà còn là bài học lớn về lý tưởng, lòng kiên định và trách nhiệm của thanh niên đối với Tổ quốc. Từ đó, tôi hiểu rằng, muốn làm điều lớn lao cho đất nước, trước hết phải dám mơ ước và dám hành động.
Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mẫu 3
Khi tôi đến thăm bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, điều khiến tôi ấn tượng nhất là sa bàn tái hiện chiến dịch Điện Biên Phủ. Người hướng dẫn viên kể chuyện mà như sống lại những ngày tháng 5/1954, khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp – vị Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam – đã làm nên một trong những chiến thắng vang dội nhất thế kỷ XX.
Sau khi ký Hiệp định Geneve 1954, Việt Nam được thế giới biết đến không chỉ như một quốc gia kiên cường mà còn là nơi đánh bại đội quân được mệnh danh “bất bại” – thực dân Pháp. Trận Điện Biên Phủ chính là đỉnh cao.
Trước đó, Bộ Chỉ huy Pháp xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ với 49 cứ điểm, hầm hào kiên cố, vũ khí tối tân, được hậu cần bằng máy bay. Họ tin rằng quân đội Việt Minh không thể công phá nổi. Nhưng Võ Nguyên Giáp đã có quyết định mang tính lịch sử: thay vì đánh “đánh nhanh thắng nhanh”, ông chuyển sang “đánh chắc, tiến chắc”.
Hàng vạn bộ đội đã vượt núi cao, kéo pháo bằng tay qua đèo dốc hiểm trở. Họ đào hàng trăm ki-lô-mét đường hào vây quanh Điện Biên, dưới sự chỉ đạo tài tình của Đại tướng. Sau 56 ngày đêm chiến đấu, ngày 7/5/1954, quân ta chiếm toàn bộ cứ điểm, tướng De Castries bị bắt sống. Lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” tung bay trên nóc hầm chỉ huy – biểu tượng của chiến thắng lịch sử.
Tôi hình dung Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi ấy, mái tóc đã điểm bạc, ánh mắt kiên định, dõi theo từng bước tiến công. Người không chỉ là thiên tài quân sự mà còn là người lãnh đạo nhân hậu, đặt mạng sống chiến sĩ lên trên hết. Câu nói: “Tôi chịu trách nhiệm trước Bác, trước Đảng, trước nhân dân” khi quyết định thay đổi phương án tác chiến là minh chứng cho sự dũng cảm và trí tuệ của ông.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã ghi tên Việt Nam vào bản đồ quân sự thế giới. Và đứng sau chiến thắng ấy là tầm vóc một con người – Đại tướng của nhân dân.
Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật sử mẫu 4
Tôi còn nhớ rõ tiết học Lịch sử hôm ấy, cô giáo kể lại chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 của quân dân nhà Trần. Nhân vật trung tâm trong chiến công lừng lẫy ấy chính là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn – người anh hùng dân tộc, danh tướng kiệt xuất trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của nước ta.
Năm 1288, quân Nguyên – Mông lần thứ ba xâm lược Đại Việt với lực lượng hùng hậu. Trước sự hung hãn của giặc, Trần Quốc Tuấn đã lãnh đạo quân dân lên kế hoạch chuẩn bị kỹ lưỡng cho một trận quyết chiến. Ông cho mai phục tại sông Bạch Đằng – nơi thủy triều lên xuống phức tạp – và cho đóng cọc nhọn dưới lòng sông, chờ thời cơ ra tay.
Ngày 8 tháng 4 âm lịch, đoàn thuyền của tướng giặc Ô Mã Nhi rút lui trên sông Bạch Đằng. Khi triều dâng, quân ta nhử địch vào bãi cọc ngầm. Đúng lúc nước rút, cọc nhô lên, thuyền giặc mắc kẹt, quân ta ào ra tấn công. Địch bị tiêu diệt, tướng Ô Mã Nhi bị bắt sống, hàng vạn quân giặc bỏ mạng.
Tôi tưởng tượng hình ảnh Hưng Đạo Vương đứng giữa chiến tuyến, ánh mắt sáng quắc, chỉ huy dứt khoát. Trận Bạch Đằng không chỉ là chiến thắng quân sự mà còn là biểu tượng của trí tuệ Việt Nam, của lòng yêu nước và tinh thần “lấy yếu thắng mạnh”.
Chiến công ấy vang vọng đến tận hôm nay như bản anh hùng ca bất diệt, còn Trần Quốc Tuấn mãi mãi là ngọn đuốc sáng soi đường dân tộc trong mỗi thời kỳ gian khó.
Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mẫu 5
Câu chuyện về trận Ngọc Hồi – Đống Đa năm Kỷ Dậu 1789 luôn khiến tôi khâm phục khi nhắc đến tên tuổi của vua Quang Trung – Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải lẫm liệt bước ra từ lòng dân tộc. Đó là một trong những chiến thắng huy hoàng nhất trong lịch sử Việt Nam.
Cuối năm 1788, hơn 20 vạn quân Thanh kéo vào Thăng Long, lập vua Lê Chiêu Thống làm bù nhìn. Trước tình thế ấy, Nguyễn Huệ – lúc này đang là Bắc Bình Vương – đã quyết định lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung và tiến ra Bắc chỉ trong chưa đầy 10 ngày.
Tôi hình dung hình ảnh một đạo quân thần tốc, vượt qua mưa xuân, rét buốt, cờ xí rợp trời, khí thế ngút ngàn. Đêm mồng 3 Tết Kỷ Dậu, tại đồn Ngọc Hồi, quân ta đánh tan tuyến phòng thủ của địch. Những chiến sĩ Tây Sơn, đầu quấn khăn ướt để chống hơi cay từ súng hỏa công của địch, ào ạt tấn công.
Tiếp đó là trận Đống Đa, xác giặc chất thành đống, quân Thanh đại bại. Tướng giặc Tôn Sĩ Nghị tháo chạy về nước không kịp mang quân phục. Ngày mồng 5 Tết, Quang Trung tiến vào Thăng Long, ban chiếu ân xá, đem lại mùa xuân thực sự cho nhân dân.
Đọc lại câu chuyện ấy, tôi cảm nhận được tinh thần quyết liệt, trí tuệ và lòng nhân ái của một vị vua xuất thân từ nhân dân. Nguyễn Huệ không chỉ là nhà quân sự lỗi lạc mà còn là người kiến tạo hòa bình, giữ trọn nghĩa lớn cho dân tộc.
Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mẫu 6
Nếu được chọn một văn kiện lịch sử thể hiện rõ nhất khí phách và tinh thần độc lập dân tộc, tôi sẽ chọn “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi – một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà quân sự, chính trị, nhà văn kiệt xuất của dân tộc ta.
Sau khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo giành thắng lợi vào năm 1427, đất nước hoàn toàn sạch bóng quân Minh xâm lược. Trong niềm vui chiến thắng, Nguyễn Trãi – người cộng sự thân tín của Lê Lợi – đã thay mặt nghĩa quân soạn thảo bài “Bình Ngô đại cáo” để tuyên bố độc lập.
Tôi tưởng tượng hình ảnh Nguyễn Trãi, mặc áo nâu, tay cầm bút lông, giữa doanh trại nghĩa quân bừng khí thế. Từng câu từng chữ ông viết như đổ lửa vào lòng người:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.”
Ông tố cáo tội ác của giặc Minh bằng những dẫn chứng thuyết phục, rồi tái hiện toàn cảnh khởi nghĩa Lam Sơn với bao gian khổ và chiến thắng vang dội. Đỉnh cao là lời khẳng định chủ quyền:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu…”
“Bình Ngô đại cáo” không chỉ là áng “thiên cổ hùng văn” mà còn là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, sau bài thơ “Nam quốc sơn hà”. Qua đó, ta càng kính phục Nguyễn Trãi – người không chỉ giỏi văn, giỏi võ, mà còn có lòng yêu nước thẳm sâu và tư tưởng nhân văn cao cả.
Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mẫu 7
Trong dòng chảy lịch sử dân tộc, có một câu chuyện mà tôi chưa bao giờ quên – câu chuyện về cuộc khởi nghĩa oanh liệt của Hai Bà Trưng. Đó là một sự kiện lịch sử có thật, mang đậm khí chất anh hùng và tinh thần bất khuất của người phụ nữ Việt Nam chống lại ách đô hộ tàn bạo của phương Bắc.
Vào cuối thế kỷ I, Giao Chỉ (tức miền Bắc nước ta ngày nay) bị nhà Hán đô hộ. Tên thái thú Tô Định tàn bạo, cai trị hà khắc, bóc lột nhân dân đến tận xương tủy. Trưng Trắc – một người phụ nữ thông minh, mạnh mẽ, con gái Lạc tướng ở Mê Linh – cùng em gái là Trưng Nhị, căm phẫn trước cảnh mất nước, chồng bị giết, dân lầm than, đã phất cờ khởi nghĩa vào mùa xuân năm 40.
Tôi như thấy rõ hình ảnh Hai Bà Trưng cưỡi voi, áo giáp sáng ngời, dẫn đầu hàng vạn nghĩa quân. Từ Mê Linh, cuộc khởi nghĩa lan rộng khắp các quận huyện. Trong vòng chưa đầy ba tháng, nghĩa quân đã đánh chiếm hơn 60 thành trì, đuổi quân Hán về nước. Hai Bà lên ngôi vua, lập triều đình ở miền Bắc, giành quyền tự chủ cho người Việt suốt ba năm.
Dù sau này, khởi nghĩa bị đàn áp và Hai Bà hy sinh trên sông Hát, nhưng tinh thần bất khuất của Hai Bà Trưng đã trở thành biểu tượng cho ý chí độc lập của dân tộc. Họ là những người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử Việt Nam xưng vương, làm nên cuộc khởi nghĩa có thật, vang vọng đến muôn đời sau.
Mỗi khi nhìn thấy tượng Hai Bà Trưng cưỡi voi chiến ở quảng trường lớn hay đọc lại những trang sử oai hùng, tôi lại thấy dâng lên niềm tự hào về cội nguồn bất khuất của người Việt, đặc biệt là hình ảnh người phụ nữ Việt Nam – kiên cường, quả cảm và đầy khí phách.
Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử mẫu 8
Tôi từng được nghe ông nội kể về một người chí sĩ yêu nước, người mà ông luôn gọi với sự kính trọng là “nhà cách mạng Phan Bội Châu”. Trong những năm đầu thế kỷ XX, giữa lúc đất nước đang oằn mình dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, ông là người đầu tiên nghĩ đến việc gửi thanh niên sang Nhật Bản học tập để tìm con đường cứu nước. Đó là câu chuyện có thật, đã trở thành dấu mốc đặc biệt trong phong trào yêu nước hiện đại – phong trào Đông Du.
Năm 1904, Phan Bội Châu cùng các đồng chí thành lập Hội Duy Tân tại Quảng Nam. Mục tiêu của hội là đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại độc lập cho dân tộc thông qua việc cải cách tư tưởng, học hỏi mô hình canh tân đất nước của Nhật Bản – quốc gia châu Á đầu tiên đánh bại được cường quốc phương Tây (Nga hoàng) thời đó.
Chỉ một năm sau, phong trào Đông Du ra đời. Hàng trăm thanh niên Việt Nam đã bí mật sang Nhật để học nghề, học khoa học kỹ thuật, quân sự. Phan Bội Châu đi khắp các tỉnh vận động tài chính, kêu gọi giới trẻ và trí thức tham gia. Trong lòng ông, niềm tin vào thế hệ trẻ là chìa khóa giải phóng dân tộc.
Tôi tưởng tượng hình ảnh cụ Phan, đầu đội khăn xếp, mắt sáng, tay cầm bút lông viết thư kêu gọi lòng yêu nước, miệt mài tổ chức từng chuyến tàu bí mật đưa học sinh sang Nhật. Dù sau đó phong trào bị thất bại do sức ép từ phía Pháp, nhiều người bị bắt hoặc trục xuất, nhưng tinh thần Đông Du vẫn sống mãi.
Câu chuyện của Phan Bội Châu là minh chứng cho lòng yêu nước sáng suốt, biết kết hợp truyền thống với tinh thần tiến bộ. Ông là người đầu tiên dám nghĩ đến việc dùng “văn minh phương Tây” để cứu lấy đất nước – một tư tưởng vượt thời đại.
Mỗi khi đọc lại tiểu sử của cụ, tôi càng thêm kính trọng con người đã dâng trọn cuộc đời cho lý tưởng độc lập dân tộc, dù biết bao lần bị tù đày, bị theo dõi và cuối cùng bị quản thúc cho đến cuối đời. Ông không thành công trọn vẹn, nhưng ông đã gieo mầm thức tỉnh cho cả một thế hệ.
Xem thêm:
20+ viết bài văn nghị luận về một vấn đề cần giải quyết (trong đời sống của học sinh hiện nay)